giáo trình văn học trẻ em – Tài liệu text

Cập nhật ngày 20/08/2022 bởi mychi

Bài viết giáo trình văn học trẻ em – Tài liệu text thuộc chủ đề về HỎi Đáp thời gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy cùng https://vietvan.vn/hoi-dap/ tìm hiểu giáo trình văn học trẻ em – Tài liệu text trong bài viết hôm nay nhé ! Các bạn đang xem nội dung về : “giáo trình văn học trẻ em – Tài liệu text”

Đánh giá về giáo trình văn học trẻ em – Tài liệu text


Xem nhanh
Cảm ơn tất cả thầy cô giáo đã trao cho chúng em những kiến thức và thầy cô vẫn luôn luôn là những người tuyệt vời.

Video mang tính giải trí và đây là những câu chuyện cá nhân. Nếu nó làm bạn cười thì đừng ngần ngại cho những người khác xem cùng nhé, họ cũng ước được cười lắm đấy 🙂

------------------------------
Hoàng Hà Mobile: https://hoanghamobile.com/?utm_source=Youtubeu0026utm_medium=ytDratellingu0026utm_content=u0026utm_campaign=hoanghamobile

► DONATE

Playerduo: https://playerduo.com/60a76bb42b3bbe0e1dedce4b
Momo: https://nhantien.momo.vn/yiF2zWYRABP

► Mạng xã hội

Fan art gửi qua Fanpage: https://www.facebook.com/DraTelling
Group DraTelling và Người trái đất: https://www.facebook.com/groups/230952858649613
Tiktok: https://www.tiktok.com/@dratelling
Liên hệ quảng cáo: [email protected]

© Bản quyền thuộc về DraTelling
© Copyright by DraTelling
☞Nếu re-post trên các mạng xã hội khác ngoài youtube, vui lòng gắn link dẫn đến fanpage DraTelling và video này ở phần mô tả hoặc comment
#DraTelling

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 80 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

Phan Xuân Phồn

GIÁO TRÌNHVĂN HỌC TRẺ EM(dùng cho ngành GD Mầm non – hệ đào tạo từ xa)

Vinh, 2011

LỜI GIỚI THIỆU

Văn học trẻ em là bộ phận trọng yếu trong chương trình giáo dục của sinhviên ngành GD Mầm non. Cuốn sách được biên soạn với nguyên tắc vừa là giáotrình, vừa được mở rộng dưới cách thức tài liệu tham khảo. Hy vọng cuốn sáchsẽ giúp ích phần nào cho học viên trong việc học tập môn học này.Do trình độ của người biên soạn còn hạn chế, cuốn tài liệu này khôngtránh khỏi những thiếu sót. công ty chúng tôi rất mong được sự góp ý của các bạn đồngnghiệp và Anh chị em học viên.

Các tác giả.

MỞ ĐẦUKHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC TRẺ EMI- Đại cương về văn học trẻ em.1. Khái niệm: Văn học trẻ em là những sáng tác do các em viết và do cácnhà văn chuyên nghiệp viết cho các em, bao gồm những tác phẩm có mặt trongvăn học truyền miệng của dân tộc cho tới những tác phẩm hiện đại, gồm cảnhững tác phẩm trong nước và ngoài nước.

2. các cơ quan cấu thành:Văn học trẻ em gồm hai bộ phận lớn:- Văn học dân gian trẻ em.- Văn học viết trẻ emTrong mỗi bộ phận lại có 2 loại tác phẩm:+ Những sáng tác cho trẻ em.+ Những sáng tác của trẻ em.3. Đặc trưng thơ văn cho trẻ ema) Văn học trẻ em đáp ứng yêu cầu giáo dụcNhững nhà văn, nhà vận hành văn hoá lớn của Liên Xô (cũ) nhưM.Gorki; C.X.Mikhancôp, M.K.Gupxcaia đều đặn cho rằng sách cho trẻ em về bảnchất là cách và biện pháp giáo dục.Giáo dục ở đây được hiểu theo nghĩa rộng: là công cụ giúp trẻ nhận thứccuộc sống, giúp trẻ cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, xã hội, tâm hồn con người.Những nội dung giáo dục trong văn học dành cho trẻ cần phải được thể hiện rõràng. Tính cách, nhân vật phải được thể hiện rõ cái tốt và cái xấu. Thái độ yêu,ghét của tác giả cũng cần phải phân minh.b) Văn học trẻ em phải đảm bảo tính nghệ thuật của thơ, truyện cho trẻTrẻ sẽ chán và không chấp nhận những câu chuyện khô khan như nhữngbài giảng về đạo đức. thường xuyên nhà văn, nhà sư phạm đã khẳng định văn học chotrẻ cần được viết một cách có nghệ thuật trong ý nghĩa đặc biệt của nó. Tácphẩm cho trẻ em không phải là hoàn toàn lặp lại tiếng nói của trẻ em mà phảilàm giàu thêm vốn hiểu biết và tiếng nói của trẻ. Nó phải được viết một cách rựcrỡ, trong sáng, nhí nhảnh… (Dế mèn phiêu lưu ký- Tô Hoài).Cái quan trọng không phải kể về những cái gì mà ở chỗ kể như thế nào.Chính do đó những tác phẩm hay được trẻ yêu thích không phải là nhiều. Conlợn qua cách miêu tả của Võ Quảng:

Lưng mày múp míp

Mắt mày húp hípĐuôi mày ngúc ngoắcMiệng thì nhóp nhapGà mái đẻ nhảy ổ thì thật ngộ nghĩnh:Bỗng mái hoa đổi nếtCái đầu nó nghếch nghếchCái cổ nó thót thótNó kêu tót tót tót.Hồn nhiên, giàu trí tưởng tượng trong cách tư duy của Trần Đăng Khoa:Cánh diều no gióTiếng nó trong ngầnDiều hay chiếc thuyềnTrôi trên sông ngân(Thả Diều – Trần Đăng Khoa)Quả dừa đàn lợn con nằm trên caoĐêm hè hoa nở cùng saoTàu dừa chiếc lược chải vào mây xanh(Cây dừa – Trần Đăng Khoa)- Tác phẩm cho trẻ khi đạt bắt buộc về giáo dục về nghệ thuật chính làđảm bảo được tính thống nhất giữa nội dung và cách thức văn học.c) Văn học cho trẻ em phải đảm bảo về tính vừa sức :Văn học cho trẻ em cần phải tính đến khả năng tâm lý của lứa tuổi, chi tiếtlà có khả năng ngôn ngữ, sức tập trung chú ý, đặc điểm tư duy.Trẻ lớp 1: Đọctruyện tranh .Trẻ lớp 2 + 3: Không nhất thiết phải là truyện tranh nhưng dunglượng bài văn, bài thơ phải vừa phải. Một bài thơ chỉ giới hạn từ 10 – 20 câu.Chuyện kể dễ dàng, cốt truyện rõ ràng, số lượng nhân vật ít, có khả năng là thầnthoại. Trẻ lớp 4 + 5: Tư duy phát triển, có nhận thức cao hơn có khả năng kể nhữngchuyện cổ tích dài hơn: Tấm Cám, truyện ngụ ngôn… có mâu thuẫn, xung đột,nhân vật có tính cách..; thơ gợi sự suy nghĩ, bắt buộc nhận xét. VD: Thầy bóixem voi, Đeo lục lặc cho mèo, Dế mèn phiêu lưu ký, Đất rừng Phương Nam, Mẹốm…hay :

Mái tranh ơi hỡi mái tranhNgấm bao nhiêu nắng mà thành quê hương

(Trần Đăng Khoa)Nắng mưa từ những ngày xưaLặn trong đời mẹ đến giờ chưa tan…Sáng nay trời đổ mưa ràoNắng trong trái chín ngọt ngào bay hươngCả đời đi gió về sươngBây giờ mẹ lại lần giường tập đi…( Trần Đăng Khoa)4) Ý nghĩa nhiệm vụ- Ý nghĩa của văn học đối với trẻ em được quy định từ chính ý nghĩa củavăn học từ bản chất nhận thức, thẩm mỹ, giáo dục của văn học.- Qua bài thơ, câu chuyện trẻ được biết thêm về thế giới xung quanh, vềtự nhiên, xã hội. Đó là thế giới của các loài vật, của con người và thiên nhiên:qua truyện cổ tích, thần thoại…Trẻ biết được phong tục tập quán của dân tộc là gói bánh chưng, bánh dàyđể lễ tết, tưởng nhớ đến tổ tiên qua chuyện “Bánh chưng, bánh dày”.- Giúp trẻ nhận thức được những mối quan hệ vốn có của nó: Quan hệtrong gia đình, ngoài xã hội, giáo dục trẻ về lẽ sống, về đối nhân xử thế: Câykhế, Tấm Cám…- nhiều bài thơ ca ngợi thiên nhiên thông qua sự ca ngợi đó là giáo dụclòng yêu thiên nhiên, yêu con người, giúp trẻ cảm nhận được vẻ đẹp của quêhương đất nước, yêu quý lao động: Hạt gạo làng ta (Trần Đăng Khoa).- thường xuyên bài thơ có tổng giá trị thẩm mỹ độc đáo văn học ngoài ý nghĩa tiếp tục

với môn học, còn có ý nghĩa tiếp xúc với nghệ thuật ngôn từ: E.U.Tri khê-ê-va,nhà giáo dục học Liên Xô khẳng định rằng trẻ em học được rất thường xuyên tiếng mẹđẻ qua văn học, đặc biệt là văn học dân gian.* Nhiệm vụ cụ thể:1 –Văn học trẻ em giúp trẻ hình thành khả năng cảm thụ văn học- Sự cảm thụ và có khả năng bộc lộ cảm xúc trước các câu chuyện bài thơxuất phát từ chính nội dung nghệ thuật của thơ, chuyện. Ngay từ bé việc ngheviệc nghe chuyện thơ là đã là một mong muốn nội tại của trẻ.- Văn học trẻ em giúp trẻ hình thành lòng yêu thích văn học, bồi dưỡng trithức văn học cho trẻ cũng như có khả năng cảm thụ thơ văn của trẻ. Từ đó trí tưởng

tượng của trẻ phát triển, sức sáng tạo văn thơ có khả năng nảy nở, hình thành ở trẻ emcó năng lực, tư chất văn học: Buổi sáng nhà em, Cây dừa…(Trần Đăng Khoa).2 – Văn học trẻ em góp phần giáo dục đạo đức cho trẻChuyện, thơ như là phương tiện hữu hiệu giáo dục trẻ lòng yêu quêhương, yêu bố mẹ, ông bà, yêu những việc làm tốt, phê phán những việc làmxấu, kính yêu Bác Hồ, chăm làm, thật thà…Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa…Công cha như núi Thái Sơn…… Ảnh Bác, khi mẹ vắng nhà…Ở lứa tuổi này trẻ đặc biệt nhảy cảm trước những vấn đề thuộc về tìnhcảm. Bởi vậy tư tưởng của thường xuyên bài thơ, câu chuyện đem đến cho trẻ là lòngyêu thương, giáo dục lòng nhân ái cho trẻ: Ảnh Bác, khi mẹ vắng nhà…(TrầnĐăng Khoa); ca ngợi tình bạn, tình người: Con chim cu gáy, Con gái người chăncừu, tục ngữ về đạo đức của nhân dân ta, Nàng Bạch Tuyết và Bảy chú lùn, Côbé lọ lem, Sự tích chim Quốc…3 – Văn học trẻ em rèn luyện kĩ năng đọc và kể cho trẻDạy văn học cho thiếu nhi không phải là đọc, kể thơ văn cho trẻ mà cònbao gồm cả việc tập cho trẻ kể lại chuyện, đọc thuộc thơ một cách diễn cảm,

đóng các vai trong truyện thơ… Qua đó rèn luyện kỹ năng đọc, kể truyện thơ chotrẻ. Từ đó phát triển vốn ngôn ngữ của trẻ, hoàn thiện dần ngữ âm, ngữ điệu củagiọng đọc, lời nói, nắm vững dần các cấu trúc ngữ pháp.Câu hỏi ôn tậpCâu 1: Ý nghĩa của tác phẩm văn học đối với cuộc sống trẻ em.Câu 2: Nêu đặc trưng của văn học trẻ em.Câu 3: Vì sao nói: tác phẩm văn học rèn luyện kĩ năng đọc, kể diễn cảm cho trẻ.Câu 4: các bộ phận cấu thành của văn học trẻ em?

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC DÂN GIANI. KHÁI NIỆM VĂN HỌC DÂN GIANTừ thủa tạo sinh và qua quá trình phát triển, có lúc con người ta đứngtrước không gian bao la mà ngơ ngác hỏi nhau:Trời phát sinh từ đâu?… Đất sinh ra từ đâu?… Người sinh ra từ bao giờ?(Dân ca Lô Lô)Núi kia ai đắp mà caoSông kia ai bới ai đào mà sâu(Ca dao Việt Nam)Cho đến hôm nay và cả mai sau con người đã có thể chinh phục thiênnhiên, bay vào vũ trụ làm việc với tốc độ “ngày dài hơn thế kỷ” nhưng suốt cảtiến trình ấy luôn có một dòng văn học như mạch nước ngầm chảy liên tục và“bám sát lịch sử một cách độc đáo” (Gorki), đó là văn học dân gian.Vậy văn học dân gian là gì: – ngôn từ văn học dân gian gồm hai vế:1. “Văn học”: Chỉ bộ phận sáng tạo nghệ thuật bằng chất liệu thuật ngữ.2. “Dân gian”:- Lưu hành trong nhân dân bằng cách truyền miệng.- Đóng vai trò như tính từ chỉ tính chất, vai trò, đặc trưng loại biệt của

dòng văn học này.Trước đây có rất thường xuyên tên gọi khác nhéu để chỉ dòng văn học này: Vănchương bình dân (phân biệt văn chương bác học ) – Thanh Lãng, Văn chươngtruyền khẩu – “Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam” do nhóm Văn Tân biên soạn.Đến những năm 50 của thế kỷ XX thuật ngữ “văn học dân gian” mới xuấthiện. Năm 1960 thành lập Hội văn nghệ dân gian Việt Nam và năm 1983 “Việnvăn hoá dân gian” Việt Nam ra đời tạo khó khăn cho văn học dân gian trở về vớicội nguồn nảy sinh và phát triển của nó. Vấn đề ở đây là mối quan hệ giữa nghệthuật thuật ngữ và những loại hình nghệ thuật khác: Liên quan đến thuật ngữ folklore(- Folk: nhân dân, – Lore: Sự hiểu biết, khoa học) do nhà nhân chủng học ngườiAnh là Uyliam Tôm Giôn (bút danh Mectơn) đưa ra lần đầu tiên năm 1846.Chung quy có hai quan điểm hiểu và dùng ngôn từ này.1- Folklore là tất cả các hiện tượng của nền văn hoá tinh thần và văn hoá vật chất.

2 – Folklore chỉ giới hạn trong khuôn khổ những sáng tác ngôn từ truyềnmiệng (sáng tác văn học) của nhân dân.Như vậy thuật ngữ folklore khi chuyển dịch sang tiếng Việt có những têngọi: “Văn hoá dân gian”, “Văn nghệ dân gian”, “Văn học dân gian”. có thể phânbiệt ba khái niệm:

Văn hoá dân gian

Văn hoávât chấtVăn hoáTinh thần

Văn nghệdân gian

Văn (văn họcdân gian)Nghệ

Phong tụctập quán

 Định nghĩa:Văn học dân gian là thành phần nghệ thuật ngôn từ trong sáng tác có tínhchất tổng hợp của nhân dân lao động, hay: văn học dân gian là những thể loạisáng tác dân gian trong đó thành phần nghệ thuật thuật ngữ (tức thành phần vănhọc) chiếm vị trí quan trọng, song bao giờ nó cũng có mối quan hệ hữu cơ vớicác thành phần nghệ thuật và phi nghệ thuật khác (lời, nhạc điệu – vũ điệu)Định nghĩa này chỉ ra được tác giả của nó là nhân dân lao động và chỉ rađược phương thuận tiện vật chất là nghệ thuật ngôn từ. (Khác văn học viết thuật ngữmang tính chất thuần tuý, còn ở đây thuật ngữ mang tính chất tổng hợp).II. ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN1. Thời điểm sinh raSo với văn học viết thì văn học dân gian ra đời trước và rất sớm, còn vănhọc viết ra đời khi có chữ viết xuất hiện (thế kỷ X).Thời điểm sinh ra của văn học dân gian gắn liền với nguồn gốc của vănhọc nghệ thuật. Văn học dân gian ra đời từ thời kỳ công xã nguyên thuỷ kho conngười còn chưa có sự phân công lao động (chân tay, trí óc) hoặc chỉ là sự phâncông lao động ở trình độ thấp. Đặc tính chung bao trùm của văn học dân gian làtính nguyên hợp (syncretique).2. Chức năng

– tương đương văn học nói chung, văn học dân gian có đầy đủ các chức năng:

Nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ, giao tiếp, giải trí, thông báo.mặt khác văn học dân gian còn có chức năng riêng biệt: chức năng thựchành (sinh hoạt). Văn học dân gian phát sinh từ những vận hành thực hành (sảnxuất, chiến đấu, nghi lễ, trao đổi tâm tình…), đến lượt nó văn học dân gian lạiphục vụ các vận hành thực hành một cách đắc lực.Nói cách khác, văn học dân gian hình thành nhằm đáp ứng những nhu cầukhác nhau của con người. VD: phục vụ mong muốn nhận thức, lý giải thiên nhiên, tựnhiên thần thoại ra đời, đúc kết kinh nghiệm sản xuất có tục ngữ, nhu cầu tìnhcảm có ca dao. Do chức năng thực hành chi phối văn học dân gian gắn chặt vớicuộc sống. VD: từ trong lao động xuất hiện các điệu hò (hò giã gạo, hò kéo lưới,kéo gỗ…), từ trong sinh hoạt gia đình xuất hiện các điệu ru con, ru cháu…- Là một loại hình có tính nguyên hợp văn học dân gian đảm nhiệm, thường xuyênchức năng khác ngoài chức năng của văn học như: Sử học, tâm lý học, giáo dụchọc, xã hội học, dân tộc học, y học…Văn học dân gian như cái túi vạn năng đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhéucủa cuộc sống con người. Tính thường xuyên chức năng của văn học dân gian tạo cho nóđặc điểm nặng về khái quát hoá lại nhẹ về cá thể hoá (nhân vật không có cátính…)3. Các thuộc tính cơ bảna) Truyền miệng và biểu diễn:- Truyền miệng là một thuộc tính dễ nhận thất và được nhận thức sớmnhất của văn học dân gian. Truyền miệng là phương thức tồn tại của văn học dângian. Từ việc sáng tác đến lưu truyền và phổ biến đều đặn bằng phương thuận tiện truyềnmiệng.Truyền miệng là phương thức sản xuất của văn học dân gian, cùng songsong tồn tại với phương thức văn bản của văn học viết. Hai phương thức nàykhông hề loại trừ nhau và thay thế nhau mà nó bổ sung và quan hệ với nhau.- Tính biểu diễn: (diễn xướng) của văn học dân gian là một thuộc tính mớiđược nhận thức khi nghiên cứu nótg mối quan hệ văn nghệ dân gian. Văn học dân

gian được truyền miệng thông qua sự biểu diễn của nhân dân. Với tư cách là mộtnghệ thuật biểu diễn hơn là của một nghệ thuật sân khấu.Trên thực tế nhân dân kể chuyện cổ tích chứ không phải đọc, hát cao daochứ không phải đọc ca dao, diễn chèo chứ không kể chèo. Sự biểu diễn của vănhọc dân gian khác với biểu diễn mang tính chất chuyên nghiệp. Văn học dângian tồn tại và phát triển trước hết là vì nhu cầu được sáng tác (trong lĩnh vựcsản xuất tinh thần chưa chuyên môn hoá) của chính những người sáng tác vàdiễn xướng của chính nhân dân lao động sau đó mới đến nhu cầu thưởng thứcvăn nghệ. Đối với văn học dân gian người biểu diễn và người thưởng thức có khichỉ là một văn học dân gian phục vụ mong muốn tự bộc lộ (biểu hiện) ở mỗi người.Văn học dân gian chỉ tồn tại một cách sinh động và thực sự đầy đu trong sự biểudiễn của nhân dân trong cuộc sống.Văn học dân gian tồn tại một cách sinh động trong cuộc sống, trong dạngthức biểu diễn gọi là: folklore sống động. Văn học dân gian tồn tại trên sách vở :Folklore tĩnh tại.b) Tính tập thể và vô danh- đề cập đến tính tập thể là chúng ta vừa nói đến một hình thức đặc trưngcủa sự sản xuất nghệ thuật, lại nói cả về phương diện là một phạm trù thẩm mỹcủa văn học dân gian.- Về phương thức sáng tác: Mỗi tác phẩm văn học dân gian là sự giacông của thường xuyên người qua thường xuyên thế hệ khác nhau. tuy nhiên, sự sáng tạo tập thểở đây không hề đối lập với vai trò cá nhân.Những bộ sử thi lớn của thế giới như Iliat – Ôđixê (Hy Lạp) Ramayana,Mahabharata (Ấn Độ), Đẻ đất đẻ nước, Đam San (Việt Nam) thường là kết quảsáng tác của thường xuyên người qua nhiều thế hệ, nhiều vùng quê khác nhau nhưngkhông loại trừ vai trò của những người có học vấn. có khả năng ban đầu là sáng táccủa một người nhưng do quy trình lưu truyền phù hợp với tâm lý của nhân dânquần chúng, được thường xuyên người chấp nhận, nhiều người gia công, lưu truyền, sửachữa trở thành tác phẩm tập thể và người sáng tác ban đầu bị lãng quên.

Do quy trình sáng tạo như thế gọi là tính vô danh (không có tên tác giả).Tính vô danh là hệ quả của tính tập thể (khác với tính khuyết danh của một vàitác phẩm).Tại sao văn học dân gian mới có một số tác phẩm lại có tác giả?c) Tính dị bảnTrong quy trình lưu truyền bằng miệng, có hai yếu tố thường được sửdụng: truyền thống và ứng tác.- Truyền thống là những bài, những câu đã có sẵn, nghệ nhân chỉ việc họcthuộc và biểu diễn lại.- Ứng tác: tuy nhiên trong lúc truyền lại tác phẩm của người xưa cácnghệ nhân dân gian tuỳ theo hoàn cảnh và mục đích sáng tạo nên những tácphẩm hoặc phiến đoạn mới đó là phần ứng tác.Như vậy ứng tác nảy sinh ngay kịp thời trong một hoàn cảnh văn hoá vănnghệ dân gian nào đó. Nếu ứng tác nào hay được nhân dân thừa nhận thì sẽ bổsung vào phần truyền thống. Từ đó phần ứng tác trong văn học dân gian nảysinh một ngôn từ khác là tính dị bản.(?) Vậy văn học viết có dị bản không? Vì sao ? Dị bản văn học dân giankhác gì dị bản của văn học viết?d) Tính địa phương và tính quốc tế:- Văn học dân gian thường là danh mục của từng vùng, từng miền mangtình cảm tự cung tự cấp nên nó mang dấu ấn địa phương rất rõ, nó biểu hiện ởngôn ngữ, khó khăn sống, phong tục tập quán, tính cách con người.- Văn học dân gian rất giàu tính địa phương nhưng cũng rất đậm tính quốc tế. Văn học dân gian các nước trên thế giới rất gần gũi nhéu vể thể loại, cách thứcbiểu hiện tương đương nội dung tư tưởng- Thể hiện qua các típ, mô típ…Sự trùng hợp có quy luật chữ không phải ngẫu nhiên vì đều là sáng tạocủa nhân dân lao động, gần gũi nhau về tâm tư, tình cảm, ước vọng…III- VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI VĂN HỌC DÂN GIAN

1. Mục đích

– Phân loại để tách bộ phận ra khỏi chỉng thể nhằm thống kê sâu hơn vàchính xác hơn.- Một sự phân loại đúng sẽ góp phần quan trọng trong việc nhận thức bảnchất của đối tượng đang được thống kê.2. Tiêu chí của sự phân loạicó thể được định ra bởi mục đích nghiên cứu, cần phải có sự thống nhất.Có nhiều cách phân loại do dựa trên thường xuyên tiêu chí khác nhau.3. Tình hình phân loại: 3 loại chính.(1) Phân loại theo truyền thống dân tộc (tâm lý dân tộc) chia văn học dângian thành thường xuyên thể loại nhỏ: truyền thuyết, cổ tích…(2) Phân loại theo tiêu chuẩn quốc tế: Chia văn học dân gian thành cácloại hình: Tự sự, trữ tình; từ đó chia ra các thể loại nhưng có những thể loạikhông xếp được vào loại hình nào cho phù hợp (tục ngữ, câu đố).(3) Phân loại theo phương thức biểu diễn của văn học dân gian: Hiện taịphân thành bốn phương thức: kể, nói, hát, diễn. Trong từng phương thức lại chiathành những loại: kể: thần thoại, cổ tích; nói: tục ngữ, câu đố… (khác phân loại 2).Cho đến nay việc phân loại văn học dân gian đang là vấn đề có tính thờisự cần tiếp tục thống kê. Tựu trưng có khả năng chia ra ba cấp độ trong phân loại:A: Loai hình: Tự sự, trữ tình, kịch.a: Thể loại: Tự sự: thần thoại, truyền thuyết…a : Tiểu loại: Cổ tích – thần kỳ- Thế sự- Loài vật.IV – VAI TRÒ VÀ TÁC DỤNG CỦA VĂN HỌC DÂN GIAN1. Đối với văn học nghệ thuật- Văn học dân gian bao giờ cũng là cơ sở văn học và nghệ thuật của bấtkỳ dân tộc nào trên thế giới. Văn học dân gian là tiền đề, khoái cảm, ảnh hưởng

lớn đến văn học viết.- Đối với văn học Việt Nam từ khi chưa có chữ viết văn học dân gian làduy nhất nhưng khi có chữ viết (thế kỷ X) nó vẫn song song tồn tại, phát triển.

Các tác giả văn học lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… đều chịu tác động sâusắc của văn học dân gian. Đối với các ngành nghệ thuật khác, văn học dân gianđóng vai trò là nền tảng.

2. Đối với đời sống con người- Nhìn chung văn học dân gian góp phần to lớn trong việc hình thành bảnsắc, bản lĩnh dân tộc.Với tư cách là một phương tiện giao tiếp độc đoá của nhân dân, văn họcdân gian đã hoàn thành các chức năng xã hội của nó. Góp phần thống nhất tưtưởng của mọi người, cổ vũ giai cấp đấu tranh chống lực lượng thù địch: thiêntai, bão lụt, thúc đẩy quá trình hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, bồidưỡng tinh thần dân chủ, lạc quan.Văn học dân gian như cuốn bách khoa toàn thư dạy khôn cho con người.- Khi xã hội chưa phân chia giai cấp, văn học dân gian là vũ khí đấu tranhgiai cấp sắc bén. Bác gọi “những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý”. Nếukhông học văn học dân gian đến một lúc nào đó chúng ta sẽ giàu của cải nhưngnghèo về tình thương.Câu hỏi:1 – Văn học dân gian là gì ? Phân tích và giải thích định nghĩa.2- Phân biệt văn học dân gian, văn nghệ dân gian, văn hoá dân gian3- Thế nào là tính nguyên hợp của văn học dân gian? Cho ví dụ.4- Trong các thuộc tính của văn học dân gian, thuộc tính nào là cơ bảnnhất? Vì sao?

VĂN HỌC DÂN GIAN CHO TRẺ EMCHƯƠNG 2: CÁC THỂ LOẠI CỦA VĂN HỌC DÂN GIANI- THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT LÀ GÌ ?1. Vấn đề phân chia thần thoại và truyền thuyếtCó nên chia thần thoại và truyền thuyết ra hai thể loại của văn học dângian hay không? Đây là một vấn đề được một vài học giả đề cập và có những ýkiến không thống nhất.- một vài học giả cho rằng nhớ đừng nên chia thần thoại và truyền thuyếtthành hai thể loại – chỉ gọi là thần thoại chứ không có truyền thuyết. Quan niệmnày được lý giải trong sách Văn học dân gian của Đinh Gia Khánh và Chu XuânDiên (ĐHTH). Theo hai ông truyền thuyết là danh từ thuộc về dã sử, nó khôngbao hàm giới thuyết và một thể loại văn học nhất định.- một số học giả khác quan niệm rằng thần thoại và truyền thuyết là haithể loại của văn học dân gian (giáo trình ĐHSP)Nhìn chung cả hai quan niệm trên đều có lý, song quan niệm thứ hai vẫncó sức thuyết phục và được nhiều người chấp nhận hơn.2. Định nghĩaa) Thần thoại: Là những truyện kể về thần, xuất hiện vào giai đoạn saucủa thời kỳ đời sống nguyên thuỷ, nhằm lý giải các hiện tượng tự nhiên và mộtsố vấn đề xã hội, đồng thời thể hiện khát vọng chinh phục thiên nhiên của ngườinguyên thuỷ. Truyện có tính chất hoang đường kỳ ảo, được xây dựng trên sựtưởng tượng mang tính chất ấu trĩ, ngây ra thơ.- Thần thoại là tập hợp những truyện kể dân gian về các vị thần, các nhânvật anh hùng thần linh, các nhân vật sáng tạo văn hoá thần linh, phản ánh quanniệm của người thời cổ về thế giới tự nhiên và cuộc sống xã hội của con người (LêChí Quế)b) Truyền thuyết: Là những truyện có tính chất hoang đường kỳ diệu, xuấthiện vào buổi bình minh của lịch sử (gần sử thi). Nó nhằm phản ánh quá trìnhdựng nước và giữ nước, cùng lúc ấy biểu dương ca ngợi sức mạnh của những anhhùng yêu nước.- Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian phản ánhnhững sự kiện, nhân vật lịch sử hay di tích cảnh vật địa phương thông qua hưcấu nghệ thuật thần kỳ (Lê Chí Quế).

“Những truyền thuyết dân gian thường có một cái lõi là sự thật lịch sử mànhân dân qua thường xuyên thế hệ đã lý tưởng hoá gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha củamình cùng với thơ và mộng, chắp đối cánh của sức tưởng tượng và nghệ thuậtdân gian làm nên những tác phẩm văn hoá mà đời đời con cháu ưa thích” (PhạmVăn Đồng: nhân ngày giỗ tổ vua Hùng. Báo Nhân dân ra ngày 29/4/1969).c) Phân biệt- Thời điểm xuất hiện: Thần thoại ra đời trước truyền thuyết vào thời đạidã man. Truyền thuyết phát sinh trên cơ sở thần thoại khi con người bước vàongưỡng cửa của thời đại văn minh, thời kỳ chiếm hữu nô lệ. mặc khác có mộtsố truyện như “Họ Hồng Bàng” nhập nhằng giữa thần thoại và truyền thuyết.- Chức năngThần thoại nhằm nhận thức và lý giải một cách tự nhiên. Nó thể hiện mối quan hệgiữa con người với tự nhiên trong đó con người là bản thể.Truyền thuyết nhằm nhận thức và lý giải lịch sử. Nó phản ánh những biếncố trọng đại có ý nghĩa toàn dân, phản ánh mối quan hệ giữa con người và lịch sử.- Nhân vậtThần thoại: Thần hay bán thần. Thần trong thần thoại là những lực lượng tựnhiên được đồ chiếu theo dạng người.Truyền thuyết: Nhân vật thường là những anh hùng lịch sử được thần thánhhoá. Con người trong truyền thuyết là những người khác thường không phải nhữngngười đời thường như trong cổ tích.II. NGUỒN GỐC VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN.1. Thần thoạia) Nguồn gốc của thần thoại- Chủ nghĩa duy tâm cổ điển (Heghen) cho rằng: thần thoại có nguồn gốc từ

tôn giáo một cách tự nhiên.- Chủ nghĩa duy vật (Mác – Angghen) khẳng định thần thoại bắt nguồn từ cuộcsống và lao động chiến đấu của người nguyên thuỷ.Vậy tại sao người nguyên thuỷ khi phản ánh đời sống lao động chiến đấu lạituởng tượng đến các vị thần?Người nguyên thuỷ sống trong thời đại dã man, trình độ hiểu biết rất thấp kémvà dường như hoàn toàn lệ thuộc vào một cách tự nhiên. Giống như đứa trẻ mới ra đời và bắtđầu biết nhận thức. Con người lúc đó mới hiểu biết tất cả thế giới xung quanh mình đểdần dần chiếm lĩnh nó. Đối tượng nhận thức rất rộng lớn, khát vọng rất cao xa nhưng

trình độ hiểu biết lại thấp kém, Vì vậy họ phải sử dụng tưởng tượng và mượn tưởng tượngđể thoả mãn những yêu cầu đó và dẫn tới sự giải thích sai lầm “Bất cứ thần thoại nàocũng sử dụng tưởng tượng và mượn tưởng tượng để chinh phục sức tự nhiên” (Mác) Thần thoại là nghệ thuật vô ý thức. Người nguyên thủy chưa có ý thức làm nghệ thuật,họ chỉ mượn tưởng tượng để khám phá những bí ẩn của vạn vật – gắn liền với mụcđích rất thực dụng.Người nguyên thuỷ do sống phụ thuộc vào một cách tự nhiên chui rúc trong hang đá,đời sống tối tăm sinh ra tâm lý sùng bái tự nhiên. Những hình thức tín ngưỡng củangười nguyên thuỷ: tô tem giáo (thờ vật tổ) và bái vật giáo (thờ núi, sông, cỏ, cây).Tất cả những điều đó đã hình thành trong con người nguyên thuỷ thế giớiquan đặc biệt: Thần linh chủ nghĩa .Chính thế giới quan đó là cơ sở về mặt ýthức để người nguyên thuỷ tưởng tượng ra thế giới thần linh trong thần thoại.b) quá trình phát triển của thần thoạiNhững lớp đầu tiên của của thần thoại có thể xuất hiện rất sớm vàokhoảng cuối thời đại đồ đá giữa hoặc đầu thời đại đồ đá mới nhưng thời kỳ pháttriển rực rỡ nhất của nó là vào giai đoạn cuối cùng, giai đoạn phát triển cao nhấtcủa thời kỳ công xã nguyên thuỷ – đó là thời kỳ quá độ chuyển tiếp từ thời đạiđồ đá mới sang thời đại đồ đồng tương ứng với bước chuyển từ thị tộc mẫu hệvà bộ lạc riêng lẻ sang cách thức liên minh bộ lạc, bộ tộc theo chế độ phụ hệ.Khi tư duy con người phát triển, sự hiểu biết ngày càng cải thiện, thế giới quan

thần linh bị phá vỡ thì thần thoại cũng bị tiêu vong – “thần thoại là thể loại mộtđi không trở lại trong lịch sử”. do đó, ngày nay không còn thần thoại mà chỉ cótác phẩm mang tính chất thần thoại.2. Truyền thuyếta) Nguồn gốc: Truyền thuyết ra đời trên cơ sở của thần thoại và gắn vớimong muốn nhằm nhận thức lịch sử của con người khi bước vào thời kỳ văn minh.Do vậy những dấu tích của thể loại vẫn tồn tại ở một số truyền thuyết, chi tiết ởnhững yếu tố kỳ diệu (Họ Hồng Bàng, Lạc Long Quân – Âu Cơ…).Truyền thuyết đã kế thừa thần thoại và đổi mới cho phù hợp với nhu cầunhận thức và lý giải lịch sử. Đến truyền thuyết con người đã có ý thức làm nghệthuật.b) quá trình phát triển

Truyền thuyết phát triển theo tiến trình lịch sử của từng dân tộc. Do ýthức về lịch sử là vấn đề luôn được đặt ra trong các thời đại cho nên Hiện tạitruyền thuyết vẫn có thể xuất hiện.Truyền thuyết với ý nghĩa chân chính của nó được thể hiện tập trung và rõnét nhất ở thời kỳ Văn lang – Âu Lạc. Bộ phận truyền thuyết này mang tính cổđiển mẫu mực nhất. do đó khi tìm hiểu truyền thuyết dân tộc Việt chủ yếu xemxét ở giai đoạn này.III- NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT1. Thần thoạia) giá trị hiện thực- Thần thoại tuy mang đậm tích chất hoang đường kỳ ảo nhưng khôngphải vì thế mà không mang tính hiện thực. Nếu xẻ bỏ bức màn thần linh chủnghĩa phủ dày lên thần thoại thì hiện ra thấp thoáng đời sống lao động và chiếnđấu của người xưa. Đó chính là đời sống phải chiến đấu với kẻ thù “bốn chânvà hai chân” để bảo tồn đời sống.Ẩn sau hình bóng các vị thần do người nguyên thuỷ tưởng tượng ra vẫn là

bóng dáng của con người. VD: Thần trụ trời để làm công việc xây dựng kiếnthiết cột trụ trời thì cũng phải lao động như con người. Truyện này nhằm giảithích tại sao trời đất phân hai, tại sao có núi non, sông hồ trên biển cả. Truyện“Thần trụ trời” có khả năng xem là một bài ca về lao động của người Việt cổ. Tiếp sau“Thần trụ trời” có hàng loạt các vị thần khác xuất hiện. Ông đếm cát… những vịthần này đều đặn có tầm vóc vũ trụ với những hành động siêu nhiên nhưng đều đặn đượcchế tác từ chính bản thân con người. vì vậy trong tay thần phải có công cụ mớilàm việc được. Công cụ của thần xây rú là đôi quang gánh nhưng gióng đượcbện bằng tóc của thần, đòn gánh nhổ bằng cây cổ thụ. Thần sét: trong tay có lưỡitấm sét, thần mưa: vòi phun, thần gió có quạt.Tuy là thần linh nhưng cũng có những nhầm lẫn, ngộ nghĩnh như conngười. Thần mưa hút nước linh tinh, thần gió vô ý gây nên bão gió bất ngờ. Vịsứ thần nghễnh ngãng đảng trí gây ra ra hiện tượng cỏ nhiều hơn lúa.Rõ ràng, nếu không có cuộc sống con người thì không có thế giới thầnlinh trong thần thoại. Thế giới thần linh trong thần thoại chính là hình bóng củatự nhiên và xã hội mà con người sinh sống vào buổi sơ khai.tổng giá trị phản ánh hiện thực của thần thoại còn được thể hiện ở trạng tháisinh hoạt có tính nguyên thuỷ của con người thời đó. Đó là một xã hội chưa có

giai cấp nên quan hệ giữa các thần là bình đẳng. Dần dần từ nhất thần tiến tới đathần đã phản ánh sự tiến hoá của xã hội nguyên thuỷ từ bình đẳng phân ra đẳngcấp, từ bộ lạc sang bộ tộc.Trong một số truyện thần thoại nó đã thể hiện tính chất duy vật và tưtưởng dân chủ thô sơ mộc mạc. Hai truyện “Cuộc tu bổ các loài vật” và “Việclàm ra lúa ra bông” cho thấy người xưa quan niệm rằng vật chất thì phải nảy sinhtừ vật chất. Cuộc thảo luận bàn bạc giữa các loài vật trong truyện “Việc làm ralúa ra bông” thể hiện tính dân chủ của người xưa. Tạo ra ý nghĩa lớn lao về mặttriết học đưa đến cho chúng ta bài học bổ ích và lý thú về tình yêu đời sống,niềm lạc quan yêu đời, thái độ tôn trọng lao động.

Thần thoại rõ ràng có tổng giá trị phản ánh hiện thực nhưng còn mờ mạt ở tưtưởng “con người đã tự đánh rơi mất mình nhường chỗ cho thế giới thần linh”.b) Tính chất lãng mạnKhát vọng chinh phục thiên nhiên, khám phá những bí ẩn vũ trị và mơước muốn có một đời sống ngày càng tốt đẹp hơn đã tạo nên tính chất lãngmạn và bay bổng của thần thoại. Chính khát vọng và ước mơ là nguồn động lựcthôi thúc người nguyên thuỷ sáng tạo ra các vị thần “lãng mạn là nguồn gốc củathần thoại”. So với tổng giá trị phản ánh hiện thực tính chất lãng mạn của thần thoạiđậm nét hơn, nổi bật hơn. tuy nhiên, lãng mạn trong thần thoại vẫn bắt nguồn từcuộc sống hiện thực.+ Khát vọng chinh phục thiên nhiên : Đây là khát vọng vô cùng tạo bạo,nó xuất phát từ trình độ hiểu biết hết sức thấp kém của người nguyên thuỷ.Muốn chế ngữ và giải thích hiện tượng lũ lụt thì hình tượng Sơn Tinh – ThuỷTinh ra đời.Chính việc người nguyên thuỷ trong khó khăn trình độ thấp kém, muốnkhám phá nguồn gốc muôn loài, muôn vật đã tạo ra tính lãng mạn cho thầnthoại. Loại truyện giải thích nguồn gốc muôn loài, muôn vật gọi là thần thoạisuy nguyên.+ Ước mơ có đời sống ngày càng tốt đẹp hơn : tác giả dân gian tưởngtượng ra nữ thần nghề mộc dạy dân làm nhà cửa, hạt lúa bằng cái đầu, củ khoainằm trên đất và nứa chỉ là một cái ống đầy nước ngọt…+ Ước mơ cuộc sống bất tử: Muốn làm thằng Cuội, Rắn già rắn lột…Tính chất lãng mạn trong thần thoại tuy cao xa nhưng không viễn vông.Nó có ý nghĩa tích cực và cách mạng. Như Goócki nói “đó là một thứ lãng mạn

rất quý vì nó góp phần thức tỉnh tinh thần cách mạng đối với thực tế và xâydựng thái độ thiết thực đối với vũ trụ. Những ước mơ khát vọng trong thần thoạiđến thời đại ngày nay trở thành hiện thực.2. Truyền thuyết

Truyền thuyết thực chất là sự nhìn nhận đánh giá của nhân dân đối với cácsự kiện và các nhân vật lịch sử.a) Tiếng vọng xa xưa của lịch sử về nguồn gốc dân tộc và sự hìnhthành Nhà nước:“Họ Hồng Bàng” là truyền thuyết gồm nhiều truyện xâu chuỗi, kết nốithành, trong đó có “Con rồng cháu tiên”, “Sự tích bọc trăm trứng”… trung tâm làLạc Long Quân – Âu Cơ. Nó phản ánh cách giải thích của nhân dân về nguồngốc dân tộc ta.- Truyện “Con rồng cháu tiên” cho thấy rằng dân tộc ta có nguồn gốc kì lạ: từsự hôn phối bố rồng mẹ tiên. Cách giải thích ấy tuy hoang đường nhưng mang giátrị hiện thực phản ánh sâu sắc ý thức lòng tự hào dân tộc của người Việt cổ.Đ.G.Khánh: “Dân tộc ta không sinh ra từ bọc trăm trứng nhưng truyện “Bọc trămtrứng” nhất thiết sinh ra từ lịch sử dân tộc ta”. Tiếp đó tác giả giải thích nguồn gốc têngọi đất nước Văn Lang, phản ánh ý thức về chủ quyền dân tộc.- Ba mẩu truyện còn lại của “Họ Hồng Bàng”: Lạc Long Quân diệt Ngưtinh, Hồ tinh, Mộc tinh nhằm cơ ngợi chiến công của Lạc Long Quân trên bavùng biển, núi, đồng bằng. Đây là sự phản ánh cuộc chiến đấu để ổn định địabàn cư trú của ta.b) Truyền thuyết phản ánh công cuộc dựng nước, giữ nước, biểudương sức mạnh của dân tộc và ca ngợi những anh hùng có công với nước.- “Tháng Gióng” là truyện có tính chất mẫu mực nhất trong bộ phậntruyền thuyết chống ngoại xâm. Thánh Gióng là khúc tráng ca ca ngợi sức mạnhcủa cuộc chiến tranh nhân dân – biểu tượng của người chiến sĩ xuất trận.- An Dương Vương cách Thánh Gióng 2000 năm – An Dương Vương rađời vào cuối xã hội Âu Lạc. Chủ đề An Dương Vương rất phức tạp.Tóm lại, từ trong truyền thuyết dân gian chúng ta luôn tìm thấy cội nguồnsức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc ta. Những hình tượng trong truyềnthuyết như Thánh Gióng, Lạc Long Quân, Lê Lợi thường có sức khái quát rộnglớn, vừa có công dụng phục vụ Hiện tại, vừa có ý nghĩa phục vụ lâu dài. do đó

mỗi khi cần động viên, biểu dương sức mạnh dân tộc thì chúng ta lại trở về vớicội nguồn truyền thuyết.

IV – THI PHÁP THẦN THOẠI VÀ TRUYỀN THUYẾT- Thi pháp là gì? Bắt nguồn từ thuật ngữ “poeticque” nghệ thuật thơ củaArixtốt là một phạm trù vừa là cách thức vừa là nội dung. Thi pháp là hình thứcmang tính quan niệm.1. Thần thoạiTrong thần thoại tác giả dân gian đã quan niệm về thế giới như thế nào thìsẽ có một hình thức biểu đạt như thế ấy.* Hình tượng:- Các vị thần trong thần thoại được đồ chiếu theo dạng người và biện phápchủ yếu là người cách hoá.- Các nhân vật trong thần thoại nhìn chung đều đặn vô tư, chất phác chưa cónội tâm, chỉ là nhân vật hành động. Đây là kiểu nhân vật chức năng chứ khôngphải nhân vật tính cách.* Cốt truyện: Đơn giản, ít tình tiết, không có mâu thuẫn trực tiếp* Thời gian nghệ thuật: Buổi hồng hoang của lịch sử loài người* Không gian nghệ thuật :2. Truyền thuyếtĐến truyền thuyết nhân dân có ý thức làm nghệ thuật thực sự.* Cốt truyện: Phức tạp hơn nhiều, cụ thể hơn thần thoại.An Dương Vương giống như caí mạng nhện xoay quanh một nhân vậttrung tâm là vua chủ* Kết cấu: Thường có kết cấu chuỗi chùm một truyền thuyết hoàn chỉnhdo thường xuyên mẫu truyện xâu lại.* Thời gian nghệ thuật: Thường là thời gian có tính xác định gắn liềnvới mốc sự kiện lịch sử “Vào thời Hùng Vương thứ…”.* Không gian nghệ thuật : Gắn với tên đất tên làng chi tiết có tính xác

định: núi Mộ Dạ, thành Cổ Loa…Xuất phát từ đặc điểm này người ta chia truyềnthuyết thành 2 loại:+ Sự kiện có thật nhưng nhân vật hư cấu: Thành Gióng.+ Sự kiện và nhân vật đều đặn có thật : An Dương Vương.

* Nhân vật: Thường là những con người được thần thánh hoá, nặng vềkhái quát hoá, nhẹ về cá thể hoá.Nhân vật có thể là vừa thần vừa người, có khả năng thần đã tách ta khỏi người. KẾT LUẬN:Thần thoại và truyền thuyết của dân tộc ta tuy không còn giữ nguyên đượchệ thống ban đầu của nó, đã bị mất mát và biến tướng đi thường xuyên nhưng vẫn là thứcủa cải vô cùng quý giá được mọi người thừa nhận. Nó đã góp phần đắc lựctrong việc bồi dưỡng mỹ cảm và giáo dục con người. Thần thoại và truyềnthuyết vừa có tính nhân loại, vừa đậm đà bản sắc dân tộc. Chú ý tiếp cận chúngtừ góc độ thi pháp.V. THẦN THOẠI VỚI TRẺ EM1. Thần thoại hấp dẫn trẻ em bởi xây dựng bằng tư duy ấu trĩ ngây thơ củangười cổ đại.- Tư duy người nguyên thuỷ rất gần gũi với tư duy trẻ thơ. Cách giải thíchcủa họ về một cách tự nhiên và xã hội hoàn toàn phù hợp với trình độ nhận thức của trẻ.Trong thời thơ ấu của lịch sử loài người con người chưa tách mình ra khỏithế giới một cách tự nhiên, họ phải lệ thuộc vào tự nhiên và bị sức mạnh một cách tự nhiên chi phối.Người ta quan sát và suy ngẫm về các sự vật xung quanh như sông, núi, mặt trời,mặt trăng, sấm, chớp, lụt lội… và tìm cách giải thích, chinh phục chúng.Tương tự như sự tò mò và tính hiếu kỳ của trẻ nhỏ. tuy nhiên có khả nănggiải thích và chế ngự các hiện tượng một cách tự nhiên của người nguyên thuỷ rất hạnchế. Trong thế giới đại bộ phận những phương tiện có liên quan trực tiếp tới đờisống vẫn nằm ngoài tầm hiểu biết của họ. Trình độ loài người lúc ấy chưa chophép hiểu được các hiện tượng ấy trong khi mong muốn cuộc sống buộc phải giải

thích chúng. yêu cầu giải thích những vấn đề đặt ra ngoài tầm hiểu biết củamình, người nguyên thuỷ đã đi đến những nhận thức sai lệch, sự lý giải hết sứcngây ra thơ, bộc trực và lạc quan.Trẻ thơ hết sức hứng thú với cách lý giải trên và có thể tin tưởng và sự lýgiải đó là hoàn toàn đúng.2. Thần thoại hấp dẫn trẻ em bởi những hình tượng nhân vật thần kỳ, mỹ lệvà thế giới hoang đường, kỳ ảo.

Mọi lực lượng một cách tự nhiên mà người nguyên thuỷ không hiểu được, khôngchi phối được đều cho là thần. Nghĩa là thần có sức mạnh vượt ra ngoài khuônkhổ bình thường, ra ngoài sức tưởng tượng của con người. Hình ảnh các vị thầnvà việc làm của họ đều mang tính chất hoang đường kỳ ảo đã trở thành nhữngmẫu mực đẹp nhất trong trí tưởng tượng của các em.Óc tưởng tượng phong phú, tính chất lãng mạn bay bổng của người xưatrong việc sáng tạo ra một thế giới thần linh đầy bí hiểm và huyền hoặc đã có tacdụng nâng cao sức khám phá và tìm hiểu thế giới xung quanh của trẻ thơ, chắpthêm cho các em đôi cánh ước mơ hồn nhiên, giản dị nhưng cũng hết sức táobạo, cao đẹp. Ước mơ cuộc sống bất tử: Thằng cuội cung trăng. Ước mơ laođộng nhẹ nhàng hơn: Cây lúa…3. Qua thần thoại các em cảm thấy yêu lao động, tin tưởng ở lao động.Thần là hình tượng tự nhiên được đồ chiếu theo dạng người. Suy nghĩ củangười nguyên thủy rất gần gũi với trẻ thơ.- Tuy là thần nhưng lại mang tính cách của người: Thần cũng ham chơi,hay quên và láu cá, như :Thần mưa, thần gió, thần lúa…- Là thần nhưng muốn đạt được mục đích gì thần cũng phải đích thân từmình làm việc. Thần trụ trời phải hỳ hục lao động vất vả. Các thần đều đặn phải tựmình đảm đương công việc của mình.- Đặc biệt con người chiến thắng cả thần linh: Cóc kiện trời, Cường bạoĐại vương đánh thần sét…

VI. TRUYỀN THUYẾT VỚI TRẺ EM1. Truyền thuyết dân gian bồi dưỡng cho trẻ thơ lòng tự hào dân tộca) Niềm tự hào lớn lao về dòng dõi con cháu Lạc HồngCâu chuyện Bọc trăm trứng mang ý nghĩa thiêng liêng đặc biệt – Điều caoquý đáng tự hoà là người Việt Nam có dòng dõi thần linh.Từ đó dạy cho các em tinh thần đoàn kết, yêu quý bạn bè, thương yêu lẫnnhau, vì tất cả đều đặn là anh em một nhà.b) Niềm tự hào về các anh hùng chống xâm lăng.Các em tự hào về một dân tộc đã sản sinh ra những con người anh hùngtuyệt vời: Yết Kiêu, Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung…Từ đó tạo cho các em lòng yêu quê hương đất nước, ý chí kiên cường,tinh thần vượt khó, vượt khổ, phấn đấu vươn lên trong học tập, xứng đáng vớitruyền thống vẻ vang dân tộc.

c) Niềm tự hào về các anh hùng văn hoáBên cạnh những anh hùng đánh thù trong giặc ngoài, dân tộc cũng đã sảnsinh những người tài giỏi trong lĩnh vực văn học xã hội. Nhân dân ta không nhữnganh hùng trong công cuộc chống ngoại xâm bảo vệ non sông gấm vóc mà cònrất tài giỏi xuất sắc trên mặt trận văn hoá – văn nghệ.Qua truyền thuyết các em thấy được con người Việt Nam rất tài giỏi, họ lànhững tấm gương sáng cho các em học tập. Họ là những anh hùng khai sáng vănhoá, làm rạng rỡ non sông đất nước, làm rạng danh con người Việt Nam.2. Truyền thuyết hấp dẫn trẻ em bởi tính chất lãng mạn hào hùngCác nhân vật trong truyền thuyết là các nhân vật trong lịch sử dân tộc,song họ không phải là những con người nguyên mẫu trần trụi mà được tác giảdân gian xây dựng như những nhân vật đẹp một cách phi thường và hoàn hảo.Điều hấp dẫn trẻ em chính là tính chất lãng mạn, âm điệu hào hùng của truyềnthuyết. Đó chính là tính chất thơ và mộng là tính văn học bổ sung cho tính chấtlịch sử. Bởi âm điệu chủ yếu trong truyền thuyết là âm điệu ngợi ca.

Những nhân vật như Lạc Long Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng, Hùng Vươngít nhiều mang dáng dấp của các nhân vật thần thoại, nghĩa là họ gần gũi với thầnhơn là con người thực ngoài đời. Truyền thuyết mô tả các nhân vật với kíchthước khổng lồ, chen lẫn niềm hào hứng đầy thú vị: Hình ảnh bà Triệu cỡi voi ratrận thật tuyệt vời: “Bà cưỡi voi, đi guốc ngà, chịt khăn vàng, mặc áo giáp vàngcầm gươm sáng láng. Voi trắng cùng và bay trên đầu quân giặc. Quân Ngô trôngthấy mà khiếp vía kinh hồn”.Người anh hùng không bao giờ chết trong lòng dân tộc, nhân dân ta gửigắm vào đó cả niềm tin và ước mơ cả tấm lòng thành kính và khâm phục: Họđược xem là lý tưởng của một thời đại, là mẫu mực của dân tộc qua mọi thời đại.Truyền thuyết mô tả Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, từ đỉnh núi Sóc Sơn bay lêntrời, An Dương Vương cần sừng tê bảy tấc (sắc) rẽ nước xuống thuỷ cung. BàTrưng lên núi Hùng Sơn rồi biến mất, bà Triệu hoá thành luồng hào quang sángrực, quyện với thanh gươm, bay vụt lên trời. Phùng Hưng hiện hình trong đámdân quê, nghìn xe vạn ngựa bay lên khoảng ngọn cây nóc nhà.Những người anh hùng bất tử đã làm nên hào khí anh linh trên giải đấtViệt Nam, luôn phù trợ cho con cháu muôn đời sau.

TRUYỆN CỔ TÍCHA- MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNGI- KHÁI NIỆM TRUYỆN CỔ TÍCH1. Giáo sư Chu Xuân Diên trong “Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoahọc” (ĐHTH TPHCM – 1989) xác định khái niệm truyện cổ tích gồm 3 yếu tố:- Là một thể loại truyện dân gian (thuộc phương thức tự sự: có nhân vậtcốt truyện, tình tiết khác kịch dân gian… trữ tình, mặc dù có chất thơ chất kịch) .- Truyện cổ tích phải gắn với xa xưa (Ngày xửa…)- Dấu tích của những truyện kể này còn lưu lại đến ngày nay.2. Giáo sư Hoàng Tiến Tựu trong giáo trình “Văn học dân gian” NxbGiáo dục 1990:

Truyện cổ tích là một loại truyện kể dân gian ra đời từ thời kỳ cổ đại, gắnliền với quy trình tan rã của chế độ công xã nguyên thuỷ, hình thành của giaiđoạn phụ quyền và phân hoá giai cấp trong xã hội. Nó hướng vào những vấn đềcơ bản, những hiện tượng có tính thường nhật trong cuộc sống nhân dân, đặc biệt lànhững xung đột có tính chất riêng tư giữa người với người trong phạm vi giađình và xã hội. Nó sử dụng một thứ tưởng tượng và hư cấu riêng (có thể gọi là“tưởng tượng và hư cấu cổ tích”) kết hợp với các thủ pháp nghệ thuật đặc thù đểphản ánh đời sống và mơ ước của nhân dân phục vụ mong muốn nhận thứ thẩm mỹ,giáo dục và giải trí của nhân dân trong những thời kỳ hoàn cảnh lịch sử khácnhéu của xã hội có giai cấp (ở nước ta là xã hội phong kiến).II- NGUỒN GỐC VÀ VẤN ĐỀ PHÂN LOẠI TRUYỆN CỔ TÍCH1. Nguồn gốc và sự hình thành của truyện cổ tích- Được xét dưới 3 góc độ:a) Sự nảy sinh đầu tiên của truyện cổ tích (tức là nguốc gốc ban đầu của thể loại).b) Nguồn gốc trực tiếp của các cơ quan, các tiểu loại, các kiểu loại truyệncổ tích ( tức nguồn gốc riêng, nguồn đề tài và chất liệu chi tiết).c) nguyên nhân tư tưởng, ý thức xã hội thúc đẩy sự nảy sinh, pháttriển và biến hoá của thể loại.Nơi sinh ra đầu tiên của thể loại này là phải nói tới thần thoại và thời kỳbắt đầu tan rã của xã hội thị tộc nguyên thuỷ. Gắn liền với hai yếu tố đó còn cóyếu tố thứ ba là nhu cầu nhận thức và lý giải hiện thực xã hội của con ngườitrong điều kiện lịch sử trên.

– Thần thoại giống như một nguồn nước chung của thường xuyên dòng, nhiều loạinghệ thuật trong đó có truyện cổ tích. Mác : “Tiền đề của nghệ thuật Hy Lạp vàthần thoại Hy Lạp (…) Thần thoại Ai Cập không bao giờ có thể là miếng đất làmsinh ra ra nghệ thuật Hy Lạp”.- Truyện cổ tích vừa kế thừa, vừa phủ định thần thoại. Ví dụ: Trí tưởngtượng đi từ thần thoại đến cổ tích là bước phát triển nhảy vọt từ tự phát đến tự

giác. Mô típ: Cóc kiện trời, Rùa thần.- Chú ý tới tác động của phong tục tín ngưỡng, cảnh vật đất nước.2. Vấn đề phân loại truyện cổ tíchVấn đề phân loại truyện cổ tích đang là vấn đề tồn tại một cách đáng kể của khoahọc về truyện cổ tích thế giới nói chung,Việt Nam nói riêng.- Nguyễn Đổng Chi trong “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” chia 3 loại“nếu như cần phải chia thì theo ý công ty chúng tôi nên chia làm 3 thứ: truyện cổ tíchhoang đường, truyện cổ tích thế sự, truyện cổ tích lịch sử”- Giáo trình ĐHTH (tập 2) Nxb ĐHTHCN, H. 1977: xét đến cùng truyệncổ tích chỉ nên chia làm hai loại chính: truyện cổ tích lịch sử và truyện cổ tíchthế sự.- Cách phân loại có sức thuyết phục nhất: 3 loại.Giáo trình của Hoàng Tiến Tựu và Lê Chí Quế – Võ Quang Nhơn: Cổ tích thầnkỳ, cổ tích loài vật và cổ tích thế sự.3. Vấn đề sưu tầm cổ tích Việt NamTrên thế giới tiến hành từ lâu, ở Việt Nam văn bản sớm nhất có chứađựng cốt truyện, mô típ cổ tích còn lưu giữ đến nay là: Lĩnh Nam chích quái Trần Thế Pháp biên soạn vào thế kỷ XIV, Vũ Quỳnh – Kiều phú soạn lại vào thếkỷ XV.Sau đó: – Truyện đời xưa – Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn 1966.- Truyện cổ nước Nam – Nxb Vĩnh Hưng Long A 1932, B.1934Nguyễn Văn Ngọc.- Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập) – Nguyễn Đổng ChiB- NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM1. Truyện cổ Việt Nam tập trung phản ánh những xung đột cơ bản trong giađình và xã hội .



Các câu hỏi về văn học trẻ em là gì


Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê văn học trẻ em là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé <3 Bài viết văn học trẻ em là gì ! được mình và team xem xét cũng như tổng hợp từ nhiều nguồn. Nếu thấy bài viết văn học trẻ em là gì Cực hay ! Hay thì hãy ủng hộ team Like hoặc share. Nếu thấy bài viết văn học trẻ em là gì rât hay ! chưa hay, hoặc cần bổ sung. Bạn góp ý giúp mình nhé!!

Các Hình Ảnh Về văn học trẻ em là gì


Các hình ảnh về văn học trẻ em là gì đang được chúng mình Cập nhập. Nếu các bạn mong muốn đóng góp, Hãy gửi mail về hộp thư [email protected] Nếu có bất kỳ đóng góp hay liên hệ. Hãy Mail ngay cho tụi mình nhé

Xem thêm dữ liệu, về văn học trẻ em là gì tại WikiPedia

Bạn có thể tìm nội dung về văn học trẻ em là gì từ trang Wikipedia tiếng Việt.◄ Tham Gia Cộng Đồng Tại

???? Nguồn Tin tại: https://vietvan.vn/hoi-dap/

???? Xem Thêm Chủ Đề Liên Quan tại : https://vietvan.vn/hoi-dap/

Related Posts

About The Author

Add Comment