Chương 4 « Tâm lý học đại cương

Cập nhật ngày 28/03/2023 bởi mychi

Bài viết Chương 4 « Tâm lý học đại cương thuộc chủ đề về Giải Đáp thời gian này đang được rất nhiều bạn quan tâm đúng không nào !! Hôm nay, Hãy cùng https://vietvan.vn/hoi-dap/ tìm hiểu Chương 4 « Tâm lý học đại cương trong bài viết hôm nay nhé ! Các bạn đang xem nội dung về : “Chương 4 « Tâm lý học đại cương”

Đánh giá về Chương 4 « Tâm lý học đại cương

Xem nhanh
5 Video Huyền Bí Randonautica Tìm Đến Nơi Bỏ Hoang
♥♡♥♡♥♡ Mong các bạn ủng hộ kênh bằng cách đăng ký và chia sẻ video ♥♡♥♡♥♡
♥♡♥♡♥♡ Đăng Ký Kênh Và Nhấn Vào Quả Chuông Để Nhận Thông Báo Video Mới ♥♡♥♡♥♡
Hãy Ghé Thăm Kênh Để Khám Phá Nhiều Video Hấp Dẫn Mới:
Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/CảmGiácLạnhTV











Music by: YouTube Audio Library
Sources:
TikTok: @deybykinross
TikTok: @chris.sees.ghosts
TikTok: @ughhenry
TikTok: @haley aig
TikTok: @matthall36


This video did not mean to harm anyone or any companies, is made under the intentions of fair use of educational purposes to only teach the viewer.
---------------------------------------------
Copyright Disclaimer!
Title 17, US Code (Sections 107-118 of the copyright law, Act 1976): All media in this video is used for purpose of review u0026 commentary under terms of fair use. All footage, u0026 images used belong to their respective companies.

Fair use is a use permitted by copyright statute that might otherwise be infringing.

1. Cảm giác

1.1. Khái niệm chung về cảm giác

1.1.1. Định nghĩa cảm giác

Mỗi sự vật, hiện tượng xung quanh ta đều đặn được bộc lộ bởi hàng loạt những thuộc tính bề ngoài như màu sắc (xanh, đỏ…), kích thước (cao, thấp,. vuông, tròn…), trọng lượng (nặng, nhẹ…), khối lượng (to, nhỏ, nhiều, ít…), tính chất (nóng, lạnh, cay, đắng). Những thuộc tính đó được LH với não bộ con người là nhờ cảm giác.

Thí dụ, ta đặt vào lòng bàn tay xòe ra của người bạn một vật bất kì với yêu cầu trước đó người bạn phải nhắm mắt, bàn tay không được nắm lại hay sờ bóp thì chắc chắn người bạn sẽ không biết đích xác đó là vật gì, mà chỉ có thể biết được vật đó nặng hay nhẹ, nóng hay lạnh… nghĩa là người bạn mới chỉ phản ánh được từng thuộc tính bề ngoài đang trực tiếp ảnh hưởng vào lòng bàn tay. Nói cách khác, não bộ của người bạn đó chỉ mới phản ánh được từng thuộc tính bề ngoài của sự vật đó nhờ cảm giác.

Từ thí dụ trên cho thấy cảm giác là cách thức đầu tiên mà qua đó một LH tâm lí của cơ thể với môi trường được thiết lập. Nói cách khác, cảm giác là một mức độ phản ánh tâm lí đầu tiên, thấp nhất của con người nói chung và của vận hành nhận thức nói riêng. Những nghiên cứu về sự phát triển của hoạt động nhận thức xét về mặt tiến hóa sinh vật (phát sinh chủng loại) cũng như về mặt hình thành cá thể (sinh ra cá thể) đã chỉ rõ cảm giác là hình thức định hướng đầu tiên của cơ thể trong thế giới xung quanh. Thí dụ, những con vật cấp thấp, sơ đẳng chỉ phản ánh được những thuộc tính riêng lẻ, có ý nghĩa sinh học trực tiếp của các sự vật, hiện tượng. Đứa trẻ trong những tuần lễ đầu tiên của cuộc đời cũng như vậy. Nói cách khác, chúng mới chỉ LH được với môi trường nhờ cảm giác, chúng mới chỉ có cảm giác.

Vậy cảm giác là gì? Cảm giác là một quá trình tâm lí phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật và hiện tượng đang trực tiếp ảnh hưởng vào các giác quan của ta.

1.1.2. Đặc điểm của cảm giác

Cảm giác có những đặc điểm cơ bản dưới đây.

– Cảm giác là một quy trình tâm lí, nghĩa là nó có phát sinh diễn biến và kết thúc. Kích thích gây ra ra cảm giác là chính các sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan và chính các trạng thái tâm lí của bản thân ta. Ở đây cần thấy sự khác biệt với khái niệm “cảm giác” như là danh mục của quy trình nhận thức.

– Cảm giác chỉ phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng chứ không phản ánh được trọn vẹn các thuộc tính của sự vật hiện tượng.

– Cảm giác phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp, tức là sự vật hiện tượng phải trực tiếp tác động vào giác quan của ta thì mới tạo ra được cảm giác.

Các đặc điểm trên của cảm giác chứng tỏ mức độ phản ánh tâm lí thấp và tính chất Giảm của cảm giác. Trong thực tế, để tồn tại và phát triển, con người còn phải nhận thức cả những sự vật hiện tượng không trực tiếp ảnh hưởng vào các giác quan của mình.

1.1.3. Bản chất của cảm giác

Cảm giác tuy là một hiện tượng tâm lí sơ đẳng có chung ở cả con vật và ở con người, nhưng ở con người, nó cũng như các hiện tượng tâm lí khác đều mang tính chất xã hội khác xa về chất so với cảm giác của con vật. Bản chất (tính chất) xã hội của cảm giác ở con người được thể hiện ở những điểm sau:

– Đối tượng phản ánh của cảm giác ở người ngoài sự vật và thần tượng vốn xuất hiện trong tự nhiên còn có cả những sự vật, hiện tượng do lao động của loài người tạo ra, tức là có bản chất xã hội.

– Cơ chế sinh lí của cảm giác ở người không chỉ giới hạn ở hệ thống tín hiệu thứ nhất mà còn bao gồm các cơ chế thuộc hệ thống tín hiệu thứ hai, tức là cũng có bản chất xã hội.

– Cảm giác ở người tuy là mức độ hoạch định đầu tiên, sơ đẳng nhất, nhưng nó không phải là mức độ duy nhất và cao nhất như ở một vài loài động vật, tức là cảm giác của người còn chịu tác động của nhiều hiện tượng tâm lí cao cấp khác của con người.

– Cảm giác của người được phát triển mạnh mẽ và phong phú dưới tác động của hoạt động và giáo dục, tức cảm giác của người được tạo rạ theo phương thức đặc thù của xã hội, Vì vậy mang đậm tính xã hội (thí dụ: do vận hành nghề nghiệp mà có những người thợ dệt phân biệt được tới 60 màu đen khác nhéu, có những người đầu bếp “nếm” được bằng mũi hoặc có những người “đọc” được bằng tay).

1.2. các loại cảm giác

Căn cứ vào vị trí của nguồn kích thích gây ra ra cảm giác nằm ở ngoài hay trong cơ thể, cảm giác được chia thành hai loại: cảm giác bên ngoài (do kích thích nằm ngoài cơ thể gây ra) và cảm giác bên trong (do kích thích nằm trong cơ thể gây nên).

1.2.1. Những cảm giác bên ngoài

a. Cảm giác nhìn (thị giác)

Cảm giác nhìn nảy sinh do ảnh hưởng của các sóng ánh sáng (sóng điện từ) phát ra từ các sự vật. Cơ sở giải phẫu – sinh lí của nó là cơ quan phân tích thị giác.

Cảm giác nhìn cho biết hình thù, khối lượng, độ sáng, độ xa, màu sắc của sự vật. Nó giữ vai trò cơ bản trong sự nhận thức thế giới bên ngoài của con người (90% lượng thông tin từ bên ngoài đi vào não là qua mắt). Cảm giác này có đặc điểm không mất ngay sau khi một kích thích mạnh ngừng tác động (được gọi là hậu ảnh hay lưu ảnh, kéo dài chừng 1/5 giây). Có hai loại hậu ảnh: dương tính và âm tính (điện ảnh đã dựa vào đặc nơi này để chiếu phim với tốc độ 24 ảnh trong một giây làm cho người xem cảm nhận như thật).

b. Cảm giác nghe (thính giác)

Cảm giác nghe do những sóng âm, tức là những dao động của không khí gây nên. Cơ sở giải phẫu – sinh lí của nó là một bộ máy phân tích thính giác.

Cảm giác nghe phản ánh những thuộc tính của âm thanh, tiếng nói: cao độ (tần số dao động), cường độ (biên độ dao động) và âm sắc (cách thức dao động). các thống kê trong lĩnh vực này cho thấy tai người có khả năng phản ánh được các âm có cao độ từ 16 đến 20.000 héc (tần số dao động) và hấp dẫn nhất ở cao độ 1.000 héc. Cảm giác nghe có ý nghĩa rất lớn trong cuộc sống con người, đặc biệt trong giao lưu ngôn ngữ và cảm nhận một vài loại hình nghệ thuật (âm nhạc, thơ ca…).

c. Cảm giác ngửi (khứu giác)

Cảm giác ngửi do các phân tử của các chất bay hơi tác động lên màng ngoài của khoang mũi cùng không khí gây ra nên. Cơ sở giải phẫu – sinh lí của cảm giác ngửi là bộ máy phế tích khứu giác.

Cảm giác ngửi cho biết tính chất của mùi. Ở người hiện đại: cảm giác ngửi ít quan trọng hơn. Nhưng khi các cảm giác nhìn và nghe bị khuyết tật thì nó và các cảm giác khác còn lại giữ một vai trò đặc biệt quan trọng.

d. Cảm giác nếm (vị giác)

Cảm giác nếm được tạo nên do tác động của các thuộc tính hóa học của các chất hòa tan trong nước lên các bộ phận thụ cảm vị giác ở lưới họng và vòm khẩu. Cơ sở giải phẫu – sinh lí của các cảm giác nếm là bộ máy phân tích vị giác.

Cảm giác nếm có 4 loại: cảm giác ngọt, cảm giác chua, cảm giác mặn và cảm giác đắng. Sự phong phú của các cảm giác này phụ thuộc vào sự phong phú của thức ăn, đồ uống và cảm giác ngửi.

e. Cảm giác da (mạc giác)

Cảm giác da do những kích thích cơ học và nhiệt độ ảnh hưởng lên da tạo nên. Cơ sở giải phẫu – sinh lí của cảm giác da là các bộ máy phân tích mạc giác.

Cảm giác da gồm 5 loại: cảm giác đụng chạm, cảm giác nén, cảm giác nóng, cảm giác lạnh và cảm giác đau. Độ nhạy cảm của các phần khác nhau của da đối với mỗi loại cảm giác này là khác nhéu.

1.2.2. Những cảm giác bên trong

a. Cảm giác vận động và cảm giác sờ mó

Cảm giác vận động là cảm giác phản ánh những biến đổi xảy ra trong các cơ quan vận động, báo hiệu về mức độ co của cơ và vị trí của các phần của cơ thể.

Sự kết hợp giữa cảm giác vận động và cảm giác đụng chạm tạo thành cảm giác sờ mó. Bàn tay là một cơ quan sờ mó: ở người, nó được phát triển rất mạnh và trở thành công cụ lao động và nhận thức rất quan trọng.

Những cảm giác sờ mó là vật điều chỉnh rất tốt đối với các động tác lao động, nhất là những động tác đòi hỏi sự chính xác cao.

b. Cảm giác thăng bằng

Cảm giác thăng bằng phản ánh vị trí và những chuyển động của đầu. Cơ quan của cảm giác thăng bằng (loa ống bán khuyên) nằm ở tai trong. Khi cơ quan này bị kích thích quá mức thì gây ra chóng mặt và nôn mửa. Cảm giác này rất quan trọng đối với hoạt động của con người.

c. Cảm giác rung

Cảm giác rung do các dao động của không khí tác động lên bề mặt thân thể tạo nên. Nó phản ánh sự rung động của các sự vật cảm giác này đặc biệt phát triển ở những người điếc, nhất là đối với những người vừa điếc, vừa câm.

d. Cảm giác cơ thể

Cảm giác cơ thể phản ánh tình trạng vận hành cơ các bộ phận nội tạng, bao gồm cả cảm giác đói, no, buồn nôn, đau ở các bộ phận bên trong con người.

Những điều trên đây về phân loại cảm giác cho thấy rằng quan niệm cũ cho rằng con người chỉ có 5 giác quan (ngũ quan) là không đẩy đủ.

1.3. Vai trò của cảm giác

Trong cuộc sống nói chung và trong hoạt động nhận thức nói riêng của con người, cảm giác giữ những vai trò quan trọng như sau:

– Cảm giác là cách thức định hướng đầu tiên của con người (và con vật) trong thực hiện khách quan. Trong mỗi giây đồng hồ, các bộ phận cảm giác đã nhận, chọn lọc và gửi về não hàng ngàn thông tin của môi trường xung quanh và của chính cơ thể mình, nhờ đó con người (và con vật) định hướng được trong không gian và thời gian. Tất nhiên đây là hình thức định hướng dễ dàng nhất.

– Cảm giác là nguồn cung cấp những nguyên vật liệu cho chính các cách thức nhận thức cao hơn. V.I. Lênin đã nói: “Ngoài thông qua cảm giác, chúng ta không thể nào nhận thức được bất cứ một cách thức nào của vật chất, tương đương bất cứ cách thức nào của vận động “và” tiền đề đầu tiên của lí luận về nhận thức chắc chắn nói rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất của hiểu biết”.

– Cảm giác là điều kiện quan trọng để đảm bảo trạng thái vận hành (trạng thái hoạt hóa) của vỏ não, nhờ đó đảm bảo hoạt động tinh thần của con người được bình thường. các nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực này cho thấy, trong trạng thái “đói cảm giác” các chức năng tâm lí và sinh lí của con người sẽ bị rối loạn.

– Cảm giác là con đường nhận thức hiện thực khách quan đặc biệt quan trọng đối với những người bị khuyết tật. Những người câm, mù, điếc đã nhận ra những thân nhân và hàng loạt đồ vật nhờ cảm giác, đặc biệt nhờ xúc giác.

1.4. Các quy luật cơ bản của cảm giác

Cảm giác ở người diễn ra theo những quy luật nhất định. Những quy luật này rất quan trọng đối với cuộc sống và công tác, kể cả công tác giáo dục và dạy học.

1.4.1. Quy luật ngưỡng cảm giác

Muốn có cảm giác thì phải có sự kích thích vào các giác quan và kích thích đó phải đạt tới một giới hạn nhất định. Giới hạn mà ở đó kích thích gây ra được cảm giác gọi là ngưỡng cảm giác.

Cảm giác có hai ngưỡng: ngưỡng cảm giác phía dưới và ngưỡng cảm giác phía trên.

Ngưỡng cảm giác phía dưới là cường độ kích thích tôi thiểu để gây ra được cảm giác. Ngưỡng cảm giác phía dưới còn gọi là ngưỡng tuyệt đối.

Ngưỡng cảm giác phía trên là cường độ kích thích tối đa vẫn còn gây ra được cảm giác.

Phạm vi giữa hai ngưỡng cảm giác nêu trên là vùng cảm giác được, trong đó có một vùng phản ánh tốt nhất.

Mỗi giác quan thích ứng với một loại kích thích nhất định và có những ngưỡng xác định. Thí dụ, ngưỡng phía dưới của cảm giác nhìn ở ngoài là những sóng ánh sáng có bước sóng 360 âm, ngưỡng phía trên là 780 âm; vùng phản ánh tốt nhất của ánh sáng là những sóng ánh sáng có bước sóng 565mm.

Cảm giác còn phản ánh sự khác nhau giữa các kích thích. Nhưng kích thích phải có một tỷ lệ chênh lệch tối thiểu về cường độ hay về tính chất thì ta mới cảm thấy có sự khác nhau giữa hai kích thích. Mức độ chênh lệch tối thiểu về cường độ hoặc tính chất của hai kích thích đủ để phân biệt sự khác nhau giữa chúng gọi là ngưỡng sai biệt. Ngưỡng sai biệt của mỗi cảm giác là một hằng số. Thí dụ, đối với cảm giác thị giác là 1/100, thính giác là 1/10…

Ngưỡng cảm giác phía dưới (ngưỡng tuyệt đối) và ngưỡng sai biệt tỉ lệ nghịch với độ nhạy cảm của cảm giác và với độ nhạy của sai biệt: ngưỡng tuyệt đối của cảm giác càng nhỏ thì độ nhạy của cảm giác càng cao và ngưỡng sai biệt càng nhỏ thì độ nhạy cảm sai biệt càng cao. Những ngưỡng này khác nhéu ở mỗi loại cảm giác và ở mỗi người khác nhau.

1.4.2. Quy luật thích ứng cảm giác

Để phản ánh được tốt nhất và bảo vệ hệ thẩn kinh, cảm giác của con người có khả năng thích ứng với kích thích. Thích ứng là khả năng thay đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi ngay của cường độ kích thích. khi cường độ kích thích tăng thì Giảm độ nhạy cảm; ngược lại, khi cường độ kích thích Giảm thì tăng độ nhạy cảm.

Ví dụ, khi đang ở chỗ sáng (cường độ kích thích của ánh sáng mạnh) vào chỗ tối (cường độ kích thích yếu) thì lúc đầu ta không nhìn thấy gì, sau dần dần mới thấy rõ (thích ứng). Trường hợp này đã xảy ra hiện tượng tăng độ nhạy cảm của cảm giác nhìn.

Quy luật thích ứng có ở tất cả những loại cảm giác, nhưng mức độ thích ứng khác nhéu. Cảm giác thị giác có khả năng thích ứng cao (trong bóng tối tuyệt đối, độ nhạy cảm với ánh sáng tăng gần 200.000 lần sau 40 phút), cảm giác đau hầu như không thích ứng. khả năng thích ứng của cảm giác có thể phát triển do hoạt động và rèn luyện (làm công nhân luyện kim có khả năng chịu đựng được nhiệt độ cao tới 50°C – 60°C trong hàng giờ đồng hồ…).

1.4.3. Quy luật ảnh hưởng lẫn nhau của các cảm giác

Các cảm giác không tồn tại độc lập mà luôn ảnh hưởng qua lại lẫn nhéu. Trong sự ảnh hưởng này, các cảm giác làm thay đổi ngay tính nhạy cảm của nhéu và diễn ra theo quy luật như sau: sự kích thích yếu lên một cơ quan phân tích này sẽ làm tăng lên độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia, sự kích thích mạnh lên một cơ quan phân tích này sẽ làm hạn chế độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia.

Sự ảnh hưởng lẫn nhau của các cảm giác có khả năng diễn ra cùng lúc ấy hay nối tiếp trên những cảm giác cùng loại hay khác loại. Có hai loại tương phản: tương phản nối tiếp và tương phản đồng thời. Ví dụ, thấy tờ giấy trắng trên nền đen trắng hơn khi thấy nó trên nền xám. Đó là tương phản đồng thời. Sau một kích thích lạnh thì một kích thích ấm sẽ có vẻ nóng hơn. Đó là tương phản nối tiếp.

Cơ sở sinh lí của quy luật này là các môi LH trên vỏ não của các cơ quan phân tích và quy luật cảm ứng qua lại giữa hưng phấn và ức chế trên vỏ não.

2. Tri giác

2.1. Khái niệm chung về tri giác

2.1.1. Định nghĩa tri giác

Khác với cảm giác, tri giác là một mức độ mới của nhận thức cảm tính, nó không phải là tổng thể các thuộc tính riêng lẻ, mà là một sự phản ánh sự vật, hiện tượng nói chung trong tổng hòa các thuộc tính của nó. Chẳng hạn, cũng trong ví dụ đã nêu, ở mục định nghĩa cảm giác, nếu cho phép người bạn nắm bàn tay lại và sờ bóp sự vật thì người bạn có thể nói được sự vật ấy là cái gì, tức đã phản ánh sự vật đang tác động một cách trọn vẹn.

Vậy tri giác là một quy trình tâm lí phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.

2.1.2. Đặc điểm của tri giác

Tri giác có những đặc điểm giống với cảm giác như:

– Cũng là một quy trình tâm lí, tức là có sinh ra, diễn biến và kết thúc;

– Cũng chỉ phản ánh thuộc tính bề ngoài của sự vật, hiện tượng;

– Cũng phản ánh hiện thực khách quan một cách trực tiếp (đang ảnh hưởng).

Tuy vậy tri giác có những đặc điểm nổi bật sau:

– Tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng một cách trọn vẹn. Tính trọn vẹn của tri giác là do tính trọn vẹn khách quan của bản thân, sự vật hiện tượng quy định. Kinh nghiệm có ý nghĩa rất lớn đối với tính trọn vẹn này, cho nên chỉ cần tri giác một vài thành phần riêng lẻ của sự vật, hiện tượng ta cũng có khả năng tổng hợp được các thành phần đó và tạo nên hình ảnh trọn vẹn của sự vật, hiện tượng. Sự tổng hợp này được thực hiện trên cơ sở hoạt động phối hợp của thường xuyên cơ quan phân tích.

– Tri giác phản ánh sự vật, hiện tượng theo những cấu trúc nhất định. Cấu trúc này không phải tổng số các cảm giác mà là sự khái quát đã được trừu xuất từ các cảm giác đó trong một liên hệ qua lại giữa các thành phần của cấu trúc ấy ở một khoảng thời gian nào đó (thí dụ như nghe ngôn ngữ mà hiểu được). Sự phản ánh này không phải đã có từ trước mà nó diễn ra trong quá trình tri giác. Đó là tính kết cấu của tri giác.

– Tri giác là quy trình tích cực, gắn liền với vận hành của con người. Tri giác mang tính tự giác, giải quyết một nhiệm vụ nhận thức chi tiết nào đó, là một hành động tích cực trong đó có sự kết hợp chặt chẽ của các yếu tố của cảm giác và vận động.

Những đặc điểm nói trên của tri giác cho thấy rằng, tuy tri giác là mức phản ánh cao hơn cảm giác nhưng vẫn thuộc giai đoạn nhận thức cảm tính, chỉ phản ánh được các thuộc tính bên ngoài, cá lẻ của sự vật, hiện tượng đang trực tiếp ảnh hưởng vào ta. Để hiểu biết thật sâu sắc về một cách tự nhiên, xã hội và bản thân, con người còn phải thực hiện giai đoạn nhận thức lí tính.

2.2. những loại tri giác

Có hai cách phân loại tri giác: theo cơ quan phân tích giữ vai trò chính trong quá trình tri giác và theo đối tượng được phản ánh trong tri giác. Theo cách thứ nhất có những loại: tri giác nhìn, tri giác nghe, tri giác sờ mó… Theo cách thứ hai có tri giác không gian, tri giác thời gian, tự giác vận động và tri giác con người.

2.2.1. Tri giác không gian

Tri giác không gian là sự phản ánh khoảng không gian tồn tại khách quan (hình dáng, độ lớn, vị trí của các vật với nhéu…).

Tri giác này giữ vai trò quan trọng trọng sự tác động qua lại của con người với môi trường, là điều kiện cần thiết để con người định hướng trong môi trường.

Tri giác không gian bao gồm sự tri giác hình dáng của sự vật (dấu hiệu quan trọng nhất là phản ánh được đường biên của sự vật) sự tri giác độ lớn của sự vật, sự tri giác chiều sâu, độ xa của sự vật và sự tri giác phương hướng. Trong tri giác không gian, cơ quan phân tích thị giác giữ vai trò đặc biệt quan trọng, sau đó là các cảm giác vận động, va chạm, cảm giác ngửi và nghe. Thí dụ, căn cứ vào mùi có khả năng xác định được vị trí của nhà hàng ăn, nghe tiếng bước chân có thể biết người đang đi về phía nào.

2.2.2. Tri giác thời gian

Tri giác thời gian là sự phản ánh độ dài lâu, tốc độ và tính kế tục khách quan của các hiện tượng trong hiện thực. Nhờ tri giác này, con người phản ánh được các biến đổi trong thế giới khách quan.

Những khoãng cách thời gian được xác định bởi các quy trình diễn ra trong cơ thể theo những nhịp điệu nhất định (nhịp tim, nhịp thở, nhịp luân chuyển thức, ngủ…). Những cảm giác nghe và vận động hỗ trợ đắc lực cho sự đánh giá các khoảng thời gian chính xác nhất. hoạt động, trạng thái tâm lí và lứa tuổi có tác động lớn đến việc tri giác độ dài thời gian (khi chờ đợi những sự kiện tốt đẹp thì thời gian dài, khi hứng thú với công việc thì thời gian trôi nhénh, trẻ em thường thấy thời gian trôi quá chậm…)

2.2.3. Tri giác vận động

Tri giác vận động là sự phản ánh những biến đổi về vị trí của các sự vật trong không gian. Ở đây các cảm giác nhìn và vận động giữ vai trò rất cơ bản. Thông tin về sự thay đổi của vật trong không gian thu được bằng cách tri giác trực tiếp khi tốc độ của vật chuyển động lớn và bằng cách suy luận khi tốc độ vận động quá chậm (như đối với chuyển động của kim giờ đồng hồ). Cơ quan phân tích thính giác cũng góp phần vào việc tri giác vận động.

2.2.4. Tri giác con người

Tri giác con người là một quy trình nhận thức (phản ánh) lẫn nhau của con người trong những khó khăn giao lưu trực tiếp. Đây là loại tri giác đặc biệt vì đối tượng của tri giác cũng là con người.

quá trình tri giác con người bao gồm tất cả các mức độ của sự phản ánh tâm lí, từ cảm giác cho đến tư duy. Sự tri giác con người có ý nghĩa thực tiễn to lớn vì nó thể hiện chức năng điều chỉnh của hình ảnh tâm lí trong quá trình lao động và giao lưu, đặc biệt trong giảng dạy và giáo dục.

2.3. Quan sát và tiềm lực quan sát

– Quan sát là một hình thức tri giác cao nhất, mang tính tích cực chủ động và có mục đích rõ nét, làm cho con người khác xa với con vật. quá trình quan sát trong vận hành, đặc biệt là trong rèn luyện đã hình thành nên năng lực quan sát.

– năng lực quan sát là khả năng tri giác nhạnh chóng và chính xác những điểm quan trọng, chủ yếu và đặc sắc của sự vật, hiện tượng cho dù những điểm đó khó nhận thấy hoặc có vẻ là thứ yếu. tiềm lực quan sát ở mọi người khác nhéu và phụ thuộc vào những đặc điểm nhân cách, biểu hiện ở kiểu tri giác hiện thực khách quan như kiểu tổng hợp (thiên về tri giác những mối quan hệ, chú trọng đến chức năng, ý nghĩa, coi nhẹ các cụ thể), kiểu phân tích (chủ yếu tri giác những thuộc tính, bộ phận), kiểu phân tích – tổng hợp (giữ được sự cân đối giữa 2 kiểu trên) và kiểu cảm xúc (chủ yếu phản ánh cảm xúc, tâm trạng do đối tượng gây ra). Những kiểu tri giác này cũng như tri giác không phải là cố định mà được thay đổi ngay do mục đích và nội dung của vận hành. Nhà trường cần hình thành cho học sinh các kĩ năng phản ánh hiện thực một cách khách quan nhất.

2.4. Vai trò của tri giác

Tri giác là thành phần của nhận thức cảm tính nhất là ở người trưởng thành. Nó là một khó khăn quan trọng trong sự định hướng hành vi và hoạt động của con người trong môi trường xung quanh. Hình ảnh của tri giác (hình tượng) thực hiện chức năng là vật điều chỉnh các hành động. Đặc biệt. cách thức tự giác cao nhất – quan sát – do những điều kiện xã hội, chủ yếu là lao động, đã trở thành một mặt tương hỗ độc lập của vận hành và đã trở thành một phương pháp nghiến cứu quan trọng của khoa học tương đương của nhận thức thực tiễn.

2.5. Các quy luật cơ bản của tri giác

2.5.1. Quy luật về tính đối tượng của tri giác

Hình ảnh trực quan mà tự giác đem lại bao giờ cũng thuộc về một sự vật, hiện tượng nhất định của thế giới bên ngoài. Tính đối tượng của tri giác nói lên sự phản ánh hiện thực khách quan chân thực của tri giác và nó được hình thành do sự ảnh hưởng của sự vật. hiện tượng xung quanh vào giác quan con người trong hoạt động vì những nhiệm vụ của thực tiễn. Tính đối tượng của tri giác có vai trò quan trọng: nó là cơ sở của chức năng hoạch định cho hành vi và vận hành của con người.

2.5.2. Quy luật về tính lựa chọn của tri giác

Tri giác của người ta không thể đồng thời phản ánh tất cả các sự vật hiện tượng đa dạng đang ảnh hưởng, thà chỉ tách đối tượng ra khỏi bối cảnh (tách vật nào đó ra khỏi các vật xung quanh). Điều này nói lên tính tích cực của tri giác.

Sự lựa chọn tri giác không có tính chất cố định, vai trò của đối tượng và bối cảnh có khả năng thay đổi cho nhéu, tùy thuộc vào mục đích cá nhân và điều kiện xung quanh khi tri giác. Sự tri giác nhũng bức tranh hai nghĩa đã nói lên điều đó.

Quy luật này có nhiều ứng dụng trong thực tế như kiến trúc, trang trí, ngụy trang và trong dạy học như: trình bày chữ viết lên bảng, thay đổi mẫu mực hoặc gạch dưới những chữ có ý quan trọng…

2.5.3. Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác

Tri giác ở người gắn chặt với tư duy, với bản chất của sự vật, hiện tượng; nó diễn ra có ý thức, tức là gọi được tên của sự Vật, hiện tượng đang tri giác ở trong óc, xếp được chúng vào một nhóm, một lớp sự vật, hiện tượng nhất định, khái quát vào những từ xác định. Trong tri giác, việc tách đối tượng ra khỏi bối cảnh gắn liền với việc hiểu ý nghĩa và tên gọi của nó.

Từ quy luật này có khả năng thấy rõ vì sao phải bảo đảm việc tri giác những tài liệu cảm tính và sử dụng ngôn ngữ truyền đạt đầy đủ, chính xác trong dạy học.

2.5.4. Quy luật về tính ổn định của tri giác

Sự vật, hiện tượng được tri giác ở những vị trí và khó khăn khác nhau nên bộ mặt của chúng luôn thay đổi. Trong tình hình có các quá trình tri giác cũng được thay đổi ngay một cách tương ứng, nhưng do khả năng bù trừ của hệ thống tri giác (các bộ phận phân tích tham gia) nên ta vẫn tri các sự vật, hiện tượng ổn định về hình dáng kích thước, màu sắc… Nói cách khác, tri giác có tính ổn định.

Tính ổn định của tri giác là khả năng phản ánh sự vật, hiện tượng không thay đổi ngay khi điều kiện tự giác thay đổi. Ví dụ: trước mặt ta là em bé, xa hơn, sau nó là ông già. Trên võng mạc ta có hình ảnh đứa bé lớn hơn hình ảnh ông già, nhưng vẫn tri giác ông già lớn hơn đứa bé: Đối với hình dáng, màu sắc sự vật tương đương thế.

Tính ổn định của tri giác được hình thành trong vận hành và đối tượng là một khó khăn rất cần thiết để hoạch định trong cuộc sống và trong hoạt động của con người giữa thế giới đa dạng và biến đổi vô tận này.

2.5.5. Quy luật tổng giác

Ngoài vật kích thích bên ngoài, tri giác còn bị quy định bởi một loạt nhân tố nằm trong bản thân chủ thể tri giác như: thái độ, nhu cầu, hứng thú, sở thích, tình cảm, mục đích, động cơ… (“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” – Nguyễn Du).

Sự phụ thuộc của tri giác vào nội dung cuộc sống tâm lí con người, vào đặc điểm nhân cách của họ được gọi là hiện tượng tổng giác. Điều này chứng tỏ ta có khả năng được khiển được tri giác.

Trong dạy học và giáo dục cẩn phải tính đến kinh nghiệm và hiểu biết của học sinh, xu hướng, hứng thú và tâm thế của họ…, đồng thời việc cung cấp tri thức, kinh nghiệm, giáo dục niềm tin, nhu cầu… cho học sinh sẽ làm cho sự tri giác hiện thực của học sinh tinh tế, súc tích hơn.

2.5.6. Ảo giác

Trong một vài trường hợp với những điều kiện thực tế xác định, tri giác có khả năng không cho ta hình ảnh đúng về sự vật. Hiện tượng này gọi là ảo ảnh thị giác, gọi tắt là ảo giác.

Ảo ảnh là tri giác không đúng, bị sai lệch. Những hiện tượng tri giác này tuy không thường xuyên, nhưng có tính chất quy luật.

Thí dụ các vòng tròn như nhéu nhưng nếu ở giữa các vòng tròn to hơn thì tri giác dường như bé hơn, các trường hợp khác cũng có kết quả tương tự.

Tính sai lầm của ảo giác tương đương tính chân thực của tri giác được kiểm tra bằng thực tế. Ta có khả năng sử dụng cách đo đạc để xác định lại tính đúng đắn của những trường hợp ảo ảnh nêu trên.

Người ta đã lợi dụng ảo giác vào trong kiến trúc, hội họa, trang trí, trang phục… để đáp ứng cho đời sống con người.

arrow_backChương 3 arrow_forwardChương 5

Các câu hỏi về cảm giác bên ngoài là gì

Nếu có bắt kỳ câu hỏi thắc mắt nào vê cảm giác bên ngoài là gì hãy cho chúng mình biết nhé, mõi thắt mắt hay góp ý của các bạn sẽ giúp mình cải thiện hơn trong các bài sau nhé <3 Bài viết cảm giác bên ngoài là gì ! được mình và team xem xét cũng như tổng hợp từ nhiều nguồn. Nếu thấy bài viết cảm giác bên ngoài là gì Cực hay ! Hay thì hãy ủng hộ team Like hoặc share. Nếu thấy bài viết cảm giác bên ngoài là gì rât hay ! chưa hay, hoặc cần bổ sung. Bạn góp ý giúp mình nhé!!

Các Hình Ảnh Về cảm giác bên ngoài là gì

Các hình ảnh về cảm giác bên ngoài là gì đang được chúng mình Cập nhập. Nếu các bạn mong muốn đóng góp, Hãy gửi mail về hộp thư [email protected] Nếu có bất kỳ đóng góp hay liên hệ. Hãy Mail ngay cho tụi mình nhé

Tham khảo kiến thức về cảm giác bên ngoài là gì tại WikiPedia

Bạn nên tra cứu thêm thông tin về cảm giác bên ngoài là gì từ trang Wikipedia tiếng Việt.◄ Tham Gia Cộng Đồng Tại ???? Nguồn Tin tại: https://vietvan.vn/hoi-dap/ ???? Xem Thêm Chủ Đề Liên Quan tại : https://vietvan.vn/hoi-dap/

Related Posts

About The Author

Add Comment